So với các bộ môn nghệ thuật khác việc tìm ra nguồn gốc âm nhạc gặp nhiều khó khăn hơn. Điêu khắc có thể căn cứ vào di tích để chứng minh sự tồn tại của của 1 trung tâm văn hóa. Nhiều họa sĩ tìm những bức tranh trong hang đá để phát biểu về các bậc tiền bối của mình. Nhờ chữ viết mà ngày nay ta được thưởng thức thơ ca của Hômêrơ, bi kịch của xôphôcơlơ cùng rất nhiều kiệt tác của các nhà văn nhà thơ hàng ngàn năm trước đây. Còn lời nhạc thì chỉ mới đặt ra cách đây chưa được 1000 năm và chiếc mấy ghi âm mới được hoàn thiện cách đây mấy chục năm.
Song ko phải vì vậy mà con người không thể tìm hiểu được nguồn gốc của âm nhạc thời xa xưa của tổ tiên.Nhờ những di vật khảo cổ về điêu khác và hội họa... ta biết được hình dáng nhạc cụ xa xưa và phỏng đoán được cách diễn tả chúng.. Căn cứ vào các bài hát dân dan mà ta có thể xét được ngọn nguồn của chúng.
Khi bàn về nguồn gốc âm nhạc có nhiều ý kiến khác nhau có ý kiến cho rằng âm nhạc sẵn có trong thiên nhiên như tiêng nước chảy, chim hót, gió…và con người bắt chước những âm thanh đó mà tạo ra âm nhạc. Có ý kiến cho rằng âm nhạc là do thần thánh tạo ra. Theo thần thoại hy lạp thần Apôlông là vị thần ánh sáng và cũng là vị thần âm nhạc.Trên các bức tranh cổ thường vẽ thần Apôlông với cây đàn lia bằng vàng. Ở Trung Quốc thời cổ có truyền thuyết cho rằng có 1 ông vua tên là PHỤC HUY(khoảng thế kỷ XXIX-XXVIII tr.cn) 1 hôm nằm mơ thấy 5 vị tinh tú trên trời sà xuống cây ngô đồng mà lập ra thang năm âm cung-thương-giốc chủy-vũ.
Quan niệm âm nhạc chỉ là sự bắt chước thiên nhiên là quan niệm phiến diện,đơn giản hóa âm nhạc và phủ nhận vai trò sáng tạo của con người.
Quan niệm âm nhạc do thần thánh tạo ra là quan niệm duy tâm do chưa có cơ sở khoa học để tìm hiểu nguồn gốc của âm nhạc
Thục ra âm nhạc ra đời từ rất sớm, khi con người còn đang ở thời kỳ nguyên thủy.Có ý kiến cho rằng: cùng với sự xuất hiện của tiếng nói thì âm nhạc cũng xuất hiện.
Tiếng nói chính là cơ sở hình thành nên giai điệu (truyền đọ cao) trong âm nhạc. Lấy ví dụ như tiếng nói của người việt nam với tiếng nói của nước châu âu thì có thể thấy rõ rằng tiếng nói có ảnh hưởng tới cấu trúc giai điệu như thế nào. Tiếng nói của người việt nam có dấu giọng: huyền(`), sắc('),nặng(.),hỏi(?),ngã(~) .Vì vậy trong các bài hát Việt Nam giai điệu phải có cấu trúc quãng phù hợp với dấu qiọng của lời ca. Còn tiêng nói người châu âu ko có dấu giọng nên ko cần tuân theo quy luật trên.Hoặc là cùng người Việt Nam các dân tộc có tiêng nói cách phất âm dấu khác nhau, ngữ âm ngữ điệu khác nhau thì cấu trúc quãng trong các giai điệu của các dân tộc cũng có những đặc trưng khác nhau.
Cùng với tiếng nói âm nhạc còn bắt nguồn từ lao động nhịp điệu lao động mà chủ yếu là lao động tập thể: nhịp điệu lao động là cơ sở tạo nên tiết tấu trong âm nhạc. Ban đầu chỉ là những tiếng hò do để thông nhất động tác làm việc của nhiều người.Dần dần thông qua nhịp điệu của những tiếng hò dô ấy người ta hát lên những lời động viên nhau hoạc giãi bầy với nhau và nhịp điệu ấy trở thành tiết tấu của 1 loại làn điệu.Ví dụ các bài hò kéo thuyền,hò sông mã,hò đồng thấp.v.v của Việt Nam đều là bài hát những làn điệu có tiết tấu xuất phát từ nhịp điệu lao động
Nhịp sinh lý con người như hơi thở tim đập,bước đi...cũng có ảnh hưởng ko nhỏ tới sự hình thanh tiết tấu trong âm nhạc,nhất là các nhịp sinh lý đó được thể hiện vào các động tác nhẩy múa:Vi du thể loại hành khúc là tiêt tấu được hình thành trên bước đi.Cấu trúc của tiết nhạc,câu nhạc cũng phải dựa vào hơi thở của con người.
Qua những điều đã nói trên ta thấy nghệ thuật âm nhạc xuất hiện từ thời kỳ sơ khai của con người. Các yêu tố âm điệu tiếng nói,nhịp điệu lao động.v.v tạo nên hai chất liệu quan trọng bậc nhất của âm nhạc là giai điệu và tiết tấu.
Âm Nhạc Thời Nguyên Thủy
Ở thời kỳ nguyên thúy sinh hoạt âm nhạc còn rất sơ khai,hoang dã. Sau những buổi săn bắn thắng lợi, những buổi hái lượm có kết quả,trong nhũng ngày tế thần.người nguyên thủy thường đốt những đống lủa và họ nhẩy quanh nó.Họ hú hét,hay có thể nói là họ hát 1 cách say sưa cuồng nhiệt để cho thêm rộn dàng họ vỗ tay, hòn đá, que đập vào nhau để đệm cho những tiếng hú.Những hòn đá cái que ấy chính là tiền thân cho các loại nhạc cụ. Đầu tiên chỉ là hòn đá cái que dần dần chúng được thay thế bằng các nhạc cụ mặc dù rất thô sơ.có rất nhiều cung săn thú chế tạo ra đàn dây. Từ chiếc tù và gọi gia súc cũng được con người chế tạo ra các loại kèn
Những nhạc cụ ra đời sớm nhất là các loại nhac gõ nhưng cây đàn gõ bằng đá. gỗ, xương dùng để giữ nhip rối sau đó mõ trống chiêng...
Sinh họat âm nhạc thời nguyên thủy là sinh hoạt dân gian, do tập thể sáng tác và truyền đi theo lối truyền miệng. Âm nhạc nguyên thủy phục vụ cho cuộc sống tập thể,cộng đồng có tính chất tự biên,tự diễn, phát sinh từ sinh hoạt và để phục vụ sinh hoạt. Vì thế âm nhạc luôn gắn chặt với lao đống sản xuất,khoa học,nhảy múa,nghi lễ tôn giáo...mà chưa tách ra thành 1 loại hình riêng biệt như ngày nay.
Đến khi chế độ cộng sản nguyên thủy tan rã,biên sang chế độ chiếm hữu nô lệ,phân chia giai cấp kẻ bóc lốt và người bị bóc lột thì âm nhạc chuyển sang 1 thời ký mới:thời kỳ cổ đại.
Âm Nhạc Thời Cổ Đại
Trong thời kỳ cổ đại, âm nhạc dân gian tiếp tục phát triển truyền thồng từ thời nguyên thủy và bổ sung thêm nhiều nhân tố mới. Đây là thời kỳ đánh dấu sự ra đời của âm nhạc chuyên nghiệp.
Âm nhạc chuyên nghiệp bình dan ra đồi trước tiên. Những người hoạt động chuyên nghiệp bình dân đều xuất thân từ quần chúng lao động, nhờ có giọng hát và ngón đàn điêu luyện hoặc vì hoàn cảnh nhất định nào đó họ lấy giọng hát, ngón đàn làm kế sinh nhai. Đó là những người hát rong riêng lẻ hoặc thành nhóm. Chủ yếu họ hát những bài dân ca hoặc phỏng theo dân ca. Nhiều nhóm hát rong có trình độ khá điêu luyện biết đặt lời thành câu chuyện dài, kết hợp những câu chuyện này vói hành động sân khấu sẽ trở thành nhạc kịch dân gian.
Nhiều người trong số các nhạc công xuất thân từ quần chúng lao động được tuyển chọn vào cung vua chúa hoặc các dinh thự quý tộc. Chính họ đã xây dựng 1 nền âm nhạc chuyên nghiệp quý tộc và cung đình.
Một số nhạc công khác cũng xuất thân từ quần chúng lao động được tuyển chọn vào dàn nhạc của các đền đài và nhà thờ. họ là những người đặt nền móng cho âm nhạc tôn giáo.
Như vậy, ở thời cổ đại, ngoài sự phân chia thành nhạc dân gian và nhạc chuyên nghiệp còn phân chia nhạc thế tục và nhạc tôn giáo. Tuy nhiên, nhạc tôn giáo thời đó chỉ chiếm 1 phần bé nhỏ.
Âm nhạc thời cổ đại không chỉ đạt được thành tựu về sánh tác và biểu diễn mà còn có những thành tựu xuất sắc khác, đó là sự xuất hiện các môn khoa học âm nhạc về các mạt thẩm mỹ, lý thuyết, sư phạm và chế tạo nhạc cụ.
Có nhiều trung tâm âm nhạc cổ đại phong phú ở rải rác trên lục địa châu âu, á, phi như:hy lạp , la mã, Trung quốc, ấn độ, ai cập...Ở châu âu nổi bật nhất là nền âm nhạc hy lạp cổ đại..
Âm Nhạc Hy Lạp Cổ Đại
Không chỉ riêng về âm nhạc, toàn bộ nền nghệ thuật nói chung của hy lạp đã để lại cho nhân loại những trang sử rực rỡ. Đó là những tòa kiến trúc đồ sộ, những pho tượng tuyệt đẹp, những áng thơ ca, những vở bi kịch lỗi lạc, những luận án khoa học uyên bác...
Toàn bộ công trình sáng tạo của người cổ đại hy lạp là "thời thơ trẻ hoàng kim của nền văn minh nhân loại"
Về phần âm nhạc, theo dòng thời gian và do cuộc chiến tranh xâm lược của người la mã, ngày nay chỉ còn lại khoảng trên mươi ca khúc có lời lẫn nhạc. Song ko phải vì vậy mà nền âm nhạc của người cổ đại Hy lạp ko được người đời biết đến. Âm nhạc hy lạp cổ đại đã gây được anh hưởng sâu sắc tới nền âm nhac thế giới cho đến ngày nay.
Những câu chuyện tuyệt vời về apolon, về ocphe vẫn làm chúng ta thích thú, vẫn là đề tài của nhiều vở nhạc kịch sau này. Hình dáng chiếc đàn Lia vẫn được làm dấu hiếu tượng trưng cho âm nhạc, và biết bao thuật ngữ âm nhạc ngày nay vẫn dùng đều bắt nguồn từ thuật ngữ của người hy lạp cổ đại.
Âm nhạc có một vai trò to lớn trong xã hội và cá nhân người Hy Lạp. ở các trug tâm như ahthen, Xpac, phivo... âm nhạc trở thành môn học bắt buộc với toàn dân (trừ nô lệ)
Âm nhạc có vai trò quan trọng trong các buổi biểu diễn bi kịch và hài kịch
Về cơ bản âm nhạc Hy Lạp cổ đại là đồng ca 1 bè( thường là đồng ca nam). Thơ luôn gắn với nhạc và thơ cũng là những thể loại của âm nhạc.
Song ko phải vì vậy mà con người không thể tìm hiểu được nguồn gốc của âm nhạc thời xa xưa của tổ tiên.Nhờ những di vật khảo cổ về điêu khác và hội họa... ta biết được hình dáng nhạc cụ xa xưa và phỏng đoán được cách diễn tả chúng.. Căn cứ vào các bài hát dân dan mà ta có thể xét được ngọn nguồn của chúng.
Khi bàn về nguồn gốc âm nhạc có nhiều ý kiến khác nhau có ý kiến cho rằng âm nhạc sẵn có trong thiên nhiên như tiêng nước chảy, chim hót, gió…và con người bắt chước những âm thanh đó mà tạo ra âm nhạc. Có ý kiến cho rằng âm nhạc là do thần thánh tạo ra. Theo thần thoại hy lạp thần Apôlông là vị thần ánh sáng và cũng là vị thần âm nhạc.Trên các bức tranh cổ thường vẽ thần Apôlông với cây đàn lia bằng vàng. Ở Trung Quốc thời cổ có truyền thuyết cho rằng có 1 ông vua tên là PHỤC HUY(khoảng thế kỷ XXIX-XXVIII tr.cn) 1 hôm nằm mơ thấy 5 vị tinh tú trên trời sà xuống cây ngô đồng mà lập ra thang năm âm cung-thương-giốc chủy-vũ.
Quan niệm âm nhạc chỉ là sự bắt chước thiên nhiên là quan niệm phiến diện,đơn giản hóa âm nhạc và phủ nhận vai trò sáng tạo của con người.
Quan niệm âm nhạc do thần thánh tạo ra là quan niệm duy tâm do chưa có cơ sở khoa học để tìm hiểu nguồn gốc của âm nhạc
Thục ra âm nhạc ra đời từ rất sớm, khi con người còn đang ở thời kỳ nguyên thủy.Có ý kiến cho rằng: cùng với sự xuất hiện của tiếng nói thì âm nhạc cũng xuất hiện.
Tiếng nói chính là cơ sở hình thành nên giai điệu (truyền đọ cao) trong âm nhạc. Lấy ví dụ như tiếng nói của người việt nam với tiếng nói của nước châu âu thì có thể thấy rõ rằng tiếng nói có ảnh hưởng tới cấu trúc giai điệu như thế nào. Tiếng nói của người việt nam có dấu giọng: huyền(`), sắc('),nặng(.),hỏi(?),ngã(~) .Vì vậy trong các bài hát Việt Nam giai điệu phải có cấu trúc quãng phù hợp với dấu qiọng của lời ca. Còn tiêng nói người châu âu ko có dấu giọng nên ko cần tuân theo quy luật trên.Hoặc là cùng người Việt Nam các dân tộc có tiêng nói cách phất âm dấu khác nhau, ngữ âm ngữ điệu khác nhau thì cấu trúc quãng trong các giai điệu của các dân tộc cũng có những đặc trưng khác nhau.
Cùng với tiếng nói âm nhạc còn bắt nguồn từ lao động nhịp điệu lao động mà chủ yếu là lao động tập thể: nhịp điệu lao động là cơ sở tạo nên tiết tấu trong âm nhạc. Ban đầu chỉ là những tiếng hò do để thông nhất động tác làm việc của nhiều người.Dần dần thông qua nhịp điệu của những tiếng hò dô ấy người ta hát lên những lời động viên nhau hoạc giãi bầy với nhau và nhịp điệu ấy trở thành tiết tấu của 1 loại làn điệu.Ví dụ các bài hò kéo thuyền,hò sông mã,hò đồng thấp.v.v của Việt Nam đều là bài hát những làn điệu có tiết tấu xuất phát từ nhịp điệu lao động
Nhịp sinh lý con người như hơi thở tim đập,bước đi...cũng có ảnh hưởng ko nhỏ tới sự hình thanh tiết tấu trong âm nhạc,nhất là các nhịp sinh lý đó được thể hiện vào các động tác nhẩy múa:Vi du thể loại hành khúc là tiêt tấu được hình thành trên bước đi.Cấu trúc của tiết nhạc,câu nhạc cũng phải dựa vào hơi thở của con người.
Qua những điều đã nói trên ta thấy nghệ thuật âm nhạc xuất hiện từ thời kỳ sơ khai của con người. Các yêu tố âm điệu tiếng nói,nhịp điệu lao động.v.v tạo nên hai chất liệu quan trọng bậc nhất của âm nhạc là giai điệu và tiết tấu.
Âm Nhạc Thời Nguyên Thủy
Ở thời kỳ nguyên thúy sinh hoạt âm nhạc còn rất sơ khai,hoang dã. Sau những buổi săn bắn thắng lợi, những buổi hái lượm có kết quả,trong nhũng ngày tế thần.người nguyên thủy thường đốt những đống lủa và họ nhẩy quanh nó.Họ hú hét,hay có thể nói là họ hát 1 cách say sưa cuồng nhiệt để cho thêm rộn dàng họ vỗ tay, hòn đá, que đập vào nhau để đệm cho những tiếng hú.Những hòn đá cái que ấy chính là tiền thân cho các loại nhạc cụ. Đầu tiên chỉ là hòn đá cái que dần dần chúng được thay thế bằng các nhạc cụ mặc dù rất thô sơ.có rất nhiều cung săn thú chế tạo ra đàn dây. Từ chiếc tù và gọi gia súc cũng được con người chế tạo ra các loại kèn
Những nhạc cụ ra đời sớm nhất là các loại nhac gõ nhưng cây đàn gõ bằng đá. gỗ, xương dùng để giữ nhip rối sau đó mõ trống chiêng...
Sinh họat âm nhạc thời nguyên thủy là sinh hoạt dân gian, do tập thể sáng tác và truyền đi theo lối truyền miệng. Âm nhạc nguyên thủy phục vụ cho cuộc sống tập thể,cộng đồng có tính chất tự biên,tự diễn, phát sinh từ sinh hoạt và để phục vụ sinh hoạt. Vì thế âm nhạc luôn gắn chặt với lao đống sản xuất,khoa học,nhảy múa,nghi lễ tôn giáo...mà chưa tách ra thành 1 loại hình riêng biệt như ngày nay.
Đến khi chế độ cộng sản nguyên thủy tan rã,biên sang chế độ chiếm hữu nô lệ,phân chia giai cấp kẻ bóc lốt và người bị bóc lột thì âm nhạc chuyển sang 1 thời ký mới:thời kỳ cổ đại.
Âm Nhạc Thời Cổ Đại
Trong thời kỳ cổ đại, âm nhạc dân gian tiếp tục phát triển truyền thồng từ thời nguyên thủy và bổ sung thêm nhiều nhân tố mới. Đây là thời kỳ đánh dấu sự ra đời của âm nhạc chuyên nghiệp.
Âm nhạc chuyên nghiệp bình dan ra đồi trước tiên. Những người hoạt động chuyên nghiệp bình dân đều xuất thân từ quần chúng lao động, nhờ có giọng hát và ngón đàn điêu luyện hoặc vì hoàn cảnh nhất định nào đó họ lấy giọng hát, ngón đàn làm kế sinh nhai. Đó là những người hát rong riêng lẻ hoặc thành nhóm. Chủ yếu họ hát những bài dân ca hoặc phỏng theo dân ca. Nhiều nhóm hát rong có trình độ khá điêu luyện biết đặt lời thành câu chuyện dài, kết hợp những câu chuyện này vói hành động sân khấu sẽ trở thành nhạc kịch dân gian.
Nhiều người trong số các nhạc công xuất thân từ quần chúng lao động được tuyển chọn vào cung vua chúa hoặc các dinh thự quý tộc. Chính họ đã xây dựng 1 nền âm nhạc chuyên nghiệp quý tộc và cung đình.
Một số nhạc công khác cũng xuất thân từ quần chúng lao động được tuyển chọn vào dàn nhạc của các đền đài và nhà thờ. họ là những người đặt nền móng cho âm nhạc tôn giáo.
Như vậy, ở thời cổ đại, ngoài sự phân chia thành nhạc dân gian và nhạc chuyên nghiệp còn phân chia nhạc thế tục và nhạc tôn giáo. Tuy nhiên, nhạc tôn giáo thời đó chỉ chiếm 1 phần bé nhỏ.
Âm nhạc thời cổ đại không chỉ đạt được thành tựu về sánh tác và biểu diễn mà còn có những thành tựu xuất sắc khác, đó là sự xuất hiện các môn khoa học âm nhạc về các mạt thẩm mỹ, lý thuyết, sư phạm và chế tạo nhạc cụ.
Có nhiều trung tâm âm nhạc cổ đại phong phú ở rải rác trên lục địa châu âu, á, phi như:hy lạp , la mã, Trung quốc, ấn độ, ai cập...Ở châu âu nổi bật nhất là nền âm nhạc hy lạp cổ đại..
Âm Nhạc Hy Lạp Cổ Đại
Không chỉ riêng về âm nhạc, toàn bộ nền nghệ thuật nói chung của hy lạp đã để lại cho nhân loại những trang sử rực rỡ. Đó là những tòa kiến trúc đồ sộ, những pho tượng tuyệt đẹp, những áng thơ ca, những vở bi kịch lỗi lạc, những luận án khoa học uyên bác...
Toàn bộ công trình sáng tạo của người cổ đại hy lạp là "thời thơ trẻ hoàng kim của nền văn minh nhân loại"
Về phần âm nhạc, theo dòng thời gian và do cuộc chiến tranh xâm lược của người la mã, ngày nay chỉ còn lại khoảng trên mươi ca khúc có lời lẫn nhạc. Song ko phải vì vậy mà nền âm nhạc của người cổ đại Hy lạp ko được người đời biết đến. Âm nhạc hy lạp cổ đại đã gây được anh hưởng sâu sắc tới nền âm nhac thế giới cho đến ngày nay.
Những câu chuyện tuyệt vời về apolon, về ocphe vẫn làm chúng ta thích thú, vẫn là đề tài của nhiều vở nhạc kịch sau này. Hình dáng chiếc đàn Lia vẫn được làm dấu hiếu tượng trưng cho âm nhạc, và biết bao thuật ngữ âm nhạc ngày nay vẫn dùng đều bắt nguồn từ thuật ngữ của người hy lạp cổ đại.
Âm nhạc có một vai trò to lớn trong xã hội và cá nhân người Hy Lạp. ở các trug tâm như ahthen, Xpac, phivo... âm nhạc trở thành môn học bắt buộc với toàn dân (trừ nô lệ)
Âm nhạc có vai trò quan trọng trong các buổi biểu diễn bi kịch và hài kịch
Về cơ bản âm nhạc Hy Lạp cổ đại là đồng ca 1 bè( thường là đồng ca nam). Thơ luôn gắn với nhạc và thơ cũng là những thể loại của âm nhạc.